Ngày 26/12, tại Hội nghị “Vận động đầu tư và tăng cường phối hợp liên ngành cho vận động của chiến lược quốc gia dinh dưỡng 2024 – 2030 và tầm nhìn tới năm 2045”, PGS.TS Trương Tuyết Mai, Phó Viện trưởng Dinh dưỡng Quốc gia cho rằng, Việt Nam đã từng đạt được nhiều tiến bộ trong việc nâng cao tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe toàn dân.
![Béo phì người lớn và lứa tuổi học đường: Tăng chóng mặt - 1 Béo phì người lớn và lứa tuổi học đường: Tăng chóng mặt - 1](https://viemamdao.net/wp-content/uploads/2023/12/img6340-crop-1703595466935.jpeg)
PGS.TS Trương Tuyết Mai, Phó Viện trưởng Viện Dinh dưỡng quốc gia (Ảnh: Song Tú).
Cụ thể, Việt Nam đã từng cơ bản đạt được các mục tiêu về suy yếu tình trạng thiếu dinh dưỡng ở bà mẹ, trẻ nhỏ.
Kết quả Tổng điều tra Dinh dưỡng cho xuất hiện tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi của trẻ dưới 5 tuổi (chiều cao/tuổi) đang suy yếu dần, từ 29,3% năm 2010 suy yếu xuống dưới 18,9% vào năm 2022. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ học đường (5-19 tuổi) vẫn còn ở mức 14,8%.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều không dễ dàng khăn, thách thức, khi tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi chênh lệch mạnh giữa các vùng miền.
Theo đó, tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ dưới 5 tuổi vùng miền núi phía Bắc là cao nhất (37,4%), sau đó là vùng Tây nguyên (28,8%). Tỷ lệ thể thấp còi ở trẻ nhỏ là người dân tộc thiểu số (31,4%) vẫn cao gấp 2 lần so với nhóm trẻ nhỏ là người kinh (15,0%).
Tỷ lệ trẻ nhỏ là người dân tộc thiểu số nhẹ cân cũng lớn hơn gấp 2,5 lần (21% so với 8,5%) so với trẻ nhỏ là người kinh.
Đồng thời, sự gia tăng nhanh chóng tình trạng thừa cân béo phì. Trong 10 năm, từ 2010-2020, tình trạng thừa cân, béo phì tăng vọt, từ 8,5% lên 19%.
Cụ thể, tỉ lệ thừa cân béo phì ở trẻ dưới 5 tuổi là 7.4% (9,8% ở thành thị, 5,3% ở nông thôn) và 19% ở trẻ nhỏ lứa tuổi học sinh. Tỷ lệ người trưởng thành thừa cân béo phì là 19% vào năm 2020.
Tình trạng thiếu vi dưỡng chất dinh dưỡng (nhất là tình trạng thiếu kẽm, thiếu máu) ở phụ nữ có thai, trẻ dưới 5 tuổi và phụ nữ tuổi sinh đẻ còn ở mức cao.
Theo điều tra của Viện Dinh dưỡng tới 2020, tỷ lệ thiếu máu ở trẻ nhỏ dưới 5 tuổi ở Việt Nam là 19,6%. Tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ có thai và không có thai tương ứng 25,6% và 16,2%.
Tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ nhỏ dưới 5 tuổi là 9,5%. Tỷ lệ thiếu kẽm đặc biệt rất cao ở trẻ dưới 5 tuổi là 58% năm 2020; phụ nữ có thai là 63,5%.
Theo Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF) và Ngân hàng Thế giới, chỉ nên đầu tư 1 USD giá thành dinh dưỡng cho trẻ trong 1.000 ngày đầu đời thì tương lai sẽ thu lại được 18 USD.
trẻ nhỏ được điều trị khỏi thấp còi có thể thoát khỏi đói nghèo tới 33% khi trưởng thành, góp phần cho tăng trưởng GDP quốc gia từ 3-10%.
Tại hội nghị, các đại biểu cho rằng, để thực hiện thành quả các chỉ tiêu, mục tiêu của Chiến lược Quốc gia về Dinh dưỡng tới năm 2030 một cách bền vững, nên tiếp tục huy động các cấp các ngành, tổ chức quốc tế, xã hội và người dân để đầu tư về cả về hàng đầu sách và nguồn lực nhằm thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp cho dinh dưỡng.
Nhiều giải pháp được đề xuất, như đưa dinh dưỡng vào luật phòng căn bệnh, được chi trả bảo hiểm y tế; xây dựng tiêu chuẩn chức danh dinh dưỡng tại cộng đồng; nhãn cảnh báo, thực thi tốt nhất các hàng đầu sách hiện có.
Đồng thời, nâng cao năng lực, đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng cán bộ thực hiện công tác dinh dưỡng.
Tiếp tục suy yếu sự chênh lệch vùng miền, dân tộc về tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi; nâng cao tình trạng thiếu vi dưỡng chất dinh dưỡng (nhất là tình trạng thiếu kẽm, thiếu máu) ở phụ nữ có thai, trẻ dưới 5 tuổi và phụ nữ tuổi sinh đẻ.
Tập trung hơn nữa để kiểm soát tình trạng thừa cân béo phì trẻ 5 – 19 tuổi và người trưởng thành vùng thành phố, thành thị…
Đẩy mạnh vận động dinh dưỡng học đường, ngành nghề đặc thù, người già, nữ vị thành niên, dinh dưỡng tiết chế địa điểm y tế…